Chăn nuôi bò là một hướng đi đang được người chăn nuôi quan tâm đầu tư và phát triển. Vì chăn nuôi bò có những ưu điểm sau: - Sử dụng các loại thức ăn ít cạnh tranh với người. - Sản phẩm cuối cùng có đầu ra ổn định. - Giá cả đảm bảo cho người nuôi có lãi. - Tận thu được các phụ phẩm trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến. - Giải quyết được lao động nông nhàn. Trong chăn nuôi bò, chăn nuôi bò cái sinh sản rất quan trọng, là yếu tố góp phần quyết định hiệu quả chăn nuôi . Tỷ lệ nuôi sống bê, khả năng sinh trưởng phát triển của bò phụ thuộc nhiều vào chăm sóc nuôi dưỡng bò cái sinh sản . Chăn nuôi bò cái sinh sản tốt sẽ đem lại hiệu quả cao cho người chăn nuôi.
II- GIỐNG VÀ CÔNG TÁC GIỐNG
1- Một số giống bò nuôi sinh sản 1.1- Giống bò vàng (hình ảnh) - Là giống bò được nuôi từ lâu đời ở Việt Nam, tập trung nhiều ở một số tỉnh như Lạng sơn, Thanh Hoá, Nghệ An ...Bò có lông màu vàng đến vàng nhạt, tầm vóc nhỏ, đầu thanh nhỏ, phần sau kém phát triển , âm hộ đen ít nếp nhăn, bầu vú nhỏ, u yếm kém phát triển. Bò vàng có ưu điểm chịu kham khổ, khả năng chống chịu bệnh tật, thích nghi tốt, khả năng sinh sản tốt... nhưng có những nhược điểm: trọng lượng bé. Trọng lượng Trung bình của bò ở tuổi trưởng thành : bò cái 180 kg, bò đực 250 kg , trọng lượng sơ sinh 12 -14 kg/ con, khả năng tăng trọng thấp, tỷ lệ thịt xẻ thấp ( khoảng 43 -44 %), thời gian cho sữa ngắn ( khoảng 150 ngày/ chu kỳ ), sản lượng sữa thấp ( khoảng 400 lít/ chu kỳ )
- Hướng sử dụng: Dùng làm nền cho lai cải tạo với các giống bò hướng thịt ( nhóm bò Ze bu ) để tạo con lai có tầm vóc to hơn, năng xuất sản lượng cao hơn . 1.2- Giống bò lai zebu (hình ảnh) Là kết quả lai tạo giữa giống bò nhóm Zebu ( Bò Red sindhi, Sahywan, Brahman...) có nguồn gốc từ Pakistan, Ân độ với bò vàng địa phương .. Bò có màu vàng hay vàng cánh gián, có u, yếm phát triển . Bò lai Zebu có tầm vóc tương đối lớn, con cái trọng lượng trên 250 kg- 320 kg, con đực nặng 400 – 450 kg, đầu thanh nhỏ , phần sau phát triển , âm hộ đen có nhiều nếp nhăn, vú to, núm vú mềm sinh sản tốt, tính hiền lành . Năng suất sữa từ 1500 – 1800 kg/ chu kỳ 240 ngày, tỷ lệ bơ 5,1-5,5 % .
+ Hướng sử dụng,... Bò lai Zebu được dùng làm nền để lai cải tiến với các giống bò thịt tạo con lai hướng thịt. Lai với các giống bò sữa để tạo ra giống bò lai hướng sữa. III. CHUỒNG TRẠI TRONG CHĂN NUÔI BÒ SINH SẢN. 1- Yêu cầu: - Thoáng mát : Xây dựng nơi cao ráo, thoáng mát và có màng lưới bao xung quanh chuồng để chống ruồi, muỗi và các côn trùng khác xâm nhập . Chọn hướng chuồng phù hợp , nên chọn hướng nam hoặc đông nam. Tránh mưa tạt gió lùa. Nên trồng một số cây cho bóng mát quanh khu vực chuồng nuôi . - Sạch sẽ: Chuồng xây cao ráo, thoát nước tốt, dễ làm vệ sinh. Chuồng trại nên làm xa nhà .Không xây máng ăn quá sâu . Nền cứng, không trơn trượt và có độ dốc để dễ thoát nước. Nền chuồng có độ dốc 2-3 % , không láng trơn . - Đảm bảo vệ sinh môi trường: Máng ăn và máng uống nên làm bằng xi măng đặt theo chiều dài hành lang phân phối thức ăn. - Thuận tiện chăm sóc quản lý - Diện tích chuồng bình quân cho mỗi bò khoảng 4- 5 m2 - Có hố ủ phân Và Cần có biện pháp xử lý phân để hạn chế ô nhiễm môi trường chung quanh và lây lan cỏ dại. 2 – Các kiểu chuồng trại: 2.1- Kiểu chuồng 1 dãy : Chuồng có lối đi , máng ăn , máng uống ở mặt trước , phía sau chuồng là rãnh thoát nước thải . Ưu điểm : chi phí xây dựng thấp , thuận lợi cho những hộ có số lượng bò ít .
* Chuồng một dãyThích hợp cho quy mô trung bình và nhỏ ở nông hộ. Nó có ưu điểm là có thể tận dụng, tiết kiệm được nguyên vật liệu, dễ đặt vị trí (thậm chí có thể tận dụng chuồng lợn cũ, cải tạo thành chuồng nuôi bò thịt). Nhược điểm của kiểu chuồng này là tốn nhiều diện tích xây dựng và nguyên vật liệu. Kiểu chuồng này có thể có lối đi phía trước dành cho người và phương tiện vận chuyển. Máng ăn và máng uống bố trí dọc theo lối đi này. Kiểu chuồng này có lối đi phía trước máng ăn.
2.2- Kiểu chuồng 2 dãy : Nhốt được hai dãy bò , hoặc quay đầu vào nhau có lối đi ở giữa , hoặc quay đầu ra hai phía có lối đi xung quanh . Thuận lợi cho những hộ gia đình có số lượng bò lớn . Chi phí xây dựng lớn nhưng tiết kiệm diện tích , thời gian sử dụng lâu dài . Các thông số kỹ thuật : Chiều dài từ mép trong máng ăn đến giọt hiên sau nơi bò đứng là 2,2 m . Nếu chuồng 1 dãy thì hiên trước rộng tối thiểu 1,2 m . Chuồng 2 dãy thì lối đi giữa rộng khoảng 1,5- 2 m . Khoảng cách giữa hai con bò khi cột vào vị trí chuồng là 1,2 – 1,5 m Mặt trong của máng ăn và máng uống có gióng đứng làm bằng sắt tròn , ống nước hoặc gỗ để dễ dàng cố định vị trí bò . khe hở của gióng chỗ đầu cho bò vào máng ăn rộng hơn chiều rộng 2 sừng 10 cm . Gióng đứng đặt chếch 1 góc 15 0 so với các gióng ngang Trên các gióng đứng là các gióng ngang . Chiều cao của các gióng ngang thấp hơn chiều cao vây bò 20 –25 cm . Trên gióng có xích để cột bò khi cần thiết .
Mặt bằng chuồng một dãy
Sơ đồ mặt bằng chuồng hai dãy có bố trí các công trình phụ trợ
IV- KỸ THUẬT CHĂN NUÔI BÒ SINH SẢN
1. Chọn giống bò cái nền
Chọn theo hệ phả ( nguồn gốc ): Chọn những con bò cái có nguồn gốc rõ ràng, chọn con của những con bò mẹ có trọng lượng lớn > 230 kg ( đối với bò lai Ze bu), có trọng lượng lớn > 180 kg ( đối với bò vàng), bò sinh sản tốt, khả năng tăng trọng nhanh .
1.2- Chọn ngoaị hình: Chọn những con bò cái có: + Ngoại hình cân đối, dáng thanh, da mỏng, lông thưa, bóng mượt + Đầu thanh nhẹ, mõm rộng mũi to, răng đều, trắng bóng. Cổ dài vừa phải và thanh, da cổ có nhiều nếp nhăn. + Ngực sâu, rộng. Máng hẹp sườn săn ( nhặt sườn ),bụng to tròn gọn . Bốn chân thẳng và mảnh, móng khít. không đi xếp lai , không đi chữ bát. + Đuôi dài, gốc đuôi to, mông nở, âm hộ không quá to, quá nhỏ, có nhiều nếp nhăn. Bầu vú phát triển, 4 núm vú đều và dài vừa phải, đầu vú chĩa ra ngoài, da vú mỏng đàn hồi, tĩnh mạch vú nổi rõ, vú mềm . Thể chất chắc khoẻ, hiền lành, không mắc các bệnh mãn tính. Sinh trưởng phát dục tốt Chu kỳ động dục đều( 20 ±2ngày) , triệu chứng động dục rõ .Không nên chọn con quá béo, quá gầy
Bò cái lai Zebu có ngoại hình đẹp 2 - Đặc điểm sinh sản của bò Tuổi động dục lần đầu : tuỳ thuộc từng cá thể, song thường bò cái động dục lần đầu khoảng 13- 15 tháng tuổi Tuổi bắt đầu phối giống : 18-24 tháng. Thời gian sử dụng để sinh sản : 8-10 năm đẻ được 6-8 lứa Thời gian mang thai : 280 - 290 ngày Thời gian động dục trở lại sau khi đẻ : 60-90 ngày . Chu kỳ động dục: trung bình 21 ngày
2.1- Tuổi thành thục về tính Khi bò đến tuổi trưởng thành, trong cơ thể , đặc biệt là bộ phận sinh dục có những biến đổi như : có hiện tượng rụng trứng , có biểu hiện động dục … sự thay đỏi biểu hiện đó 1 cách có chu kỳ người ta gọi là chu kỳ động dục . lúc này người ta gọi bò đã thành thục về tính . Trong thực tế, bò thành thục sinh dục sớm hơn rất nhiều so với thành thục về thể vóc, tuy nhiên ,không nên đưa bò tơ vào sinh sản quá sớm vì ảnh hưởng đến phát triển cơ thể của chúng. Chỉ nên tiến hành phối giống sau khi xuất hiện 2 -3 chu kỳ động dục đầu tiên và khi khối lượng cơ thể bằng 2/3 khối lượng cơ thể ở tuổi trưởng thành. Tuổi thành thục về tính ở bò khoảng 13 -15 tháng tuổi 2.2- Biểu hiện động dục và xác định thời điểm phối giống thích hợp 2.2.1- Những biếu hiện chủ yếu khi bò động dục : Thời gian động dục của bò cái : 24- 36 giờ có thể chia làm 3 giai đoạn: - Giai đoạn bắt đầu động dục : (6-10 giờ) + Con vật băn khoăn ngơ ngác, kêu rống , chạm sừng nhau , thích gần và hít ngửi âm hộ con khác. Nhảy lên con khác nhưng không cho bò khác nhảy lên . +Âm hộ sưng , hơi mở có màu hồng . - Giai đoạn giữa động dục : (12-16 giờ): + Con vật hưng phấn cao độ thích nhảy lên con khác, sau đứng yên để con khác nhảy lên . + Âm hộ hơi mở , có màu hồng .Niêm dịch keo dính , có màu trắng tạo thành dòng . + Ăn uống ít hoặc không chịu ăn . - Giai đoạn cuối động dục (6-10 giờ ): Không cho con khác nhảy lên . Ăn uống trở lại bình thường . 2.2.2- Thời điểm phối giống thích hợp cho bò : + Khi thấy bò cái động dục đứng yên, cho bò khác nhảy lên (bò chịu đực khoảng 10-12 giờ sau tiếng bò rống đầu tiên) + Âm hộ hơi hở niêm mạc âm hộ chuyển từ màu đỏ hồng sang hồng nhạt. Niêm dịch (tức nhựa chuối) keo dính thành dây. 2.2.3- Phương pháp phát hiện động dục + Phương pháp quan sát: là phương pháp phát hiện phổ biến nhất hiện nay. Phương pháp này dựa vào các triệu chứng biểu hiện động dục ở bên ngoài của bò cái theo đúng quy luật tự nhiên của chu kỳ động dục. Bằng mắt thường ta quan sát được những biểu hiện của con vật như sau: Bò ăn ít, ngơ ngác, kêu rống, nhảy lên lưng con khác hoặc để con khác nhảy lên Biểu hiện cơ quan sinh dục: âm đạo hơi sưng, boáng mỡ, niêm mạc âm đạo đỏ hồng, dịch nhày trong suốt chảy ra. Lưng hơi nhún nhảy; âm môm và hậu môn mấp máy, có phản xạ muốn giao phối. + Phương pháp dùng đực thí tình ( sử dụng ở các trang trại lớn, có đàn bò nuôi tập trung ). Phương pháp này có ưu điểm là phát hiện chính xác được con bò có thực sự động dục hay không. Kể cả trường họp động dục ngầm cũng phát hiện rất tốt. Ngoài ra còn có tác dụng kích thích chu kỳ động dục của con cái. 2.3- Phối giống cho bò : Khi bò động dục có thể phối giống bằng 2 phương pháp : - Thụ tinh nhân tạo : sử dụng tinh của những con bò đực giống tốt đưa vào đường sinh sản của con cái bằng các dụng cụ chuyên ngành thông qua bàn tay của con người. Thụ tinh nhân tạo (TTNT) có ưu điểm: + Tăng nhanh về tiến bộ di truyền và cải tiến giống bò góp phần nâng cao năng suất, chất lượng thịt sữa và hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bò . + Những bò đực giống dùng khai thác tinh để truyền tinh nhân tạo đã được chọn lọc thông qua kiểm tra năng suất cá thể và kiểm tra qua đời sau, do đó bê sinh ra có tầm vóc lớn. + Hạn chế được lây lan dịch bệnh và tránh được những bệnh lây trực tiếp qua đường phối giống tự nhiên . + Khắc phục được sự chênh lệch tầm vóc, khối lượng cơ thể khi phối giống tự nhiên. + Thuận lợi trong công tác quản lý về con giống - Cho bò nhảy trực tiếp : Nếu không có dẫn tinh viên gia đình tìm bò đực nhóm giống zebu (Redsindhi , Sahiwal …)thuần hay bò đực lai zebu to khoẻ, đẹp về ngoại hình cho nhảy trực tiếp . Chú ý : Không cho bò đực cóc địa phương phối giống. Phải thiến bò đực cóc vì năng xuất kém, nhỏ con .
3- Chăm sóc nuôi dưỡng
3.3. Chăm sóc nuôi dưỡng bê sơ sinh đến bò cái tơ 3.3.1- Mục đích : Nuôi dưỡng chăm sóc bê là 1 khâu rất quan trọng bởi vì con bê hôm nay là con bò ngày mai . Bệnh tật , chết , nhiều vấn đề khác thường xảy ra ở 2 tuần đầu . Tỷ lệ chết có thể từ 20-50 % . Tỷ lệ chết cao làm mất 1 khoản thu nhập đáng kể vì vậy cần hết sức chú ý khâu hộ sinh và chăm sóc sức khoẻ khi nuôi bê . Mục đích của việc nuôi bê tốt là để :
Nâng cao tỷ lệ nuôi sống bê , đảm bảo cho bê sinh trưởng phát triển tốt , Khối lượng bê sơ sinh phải đạt 8- 10 % trọng lượng bò trưởng thành , bê 6 tháng đạt 30-40 % trọng lượng bò trưởng thành
Bê 1 năm đạt 50 –60 % trọng lượng bò trưởng thành Bê tơ 2 năm đạt 70 – 80 % trọng lượng bò trưởng thành
Tạo ra được 1 con bò khoẻ mạnh
1 con bò có khả năng ăn được nhiều thức ăn thô xanh (Cả số lượng và chủng loại )
Thời gian khai thác, sử dụng lâu bền ( Không phải loại thải sớm) .
1 con bò sinh con bê đầu tiên vào lúc 2-2.5 tuổi
3.3.2- Kỹ thuật nuôi - Đặc điểm sinh lý của bê ( Từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi ) Giai đoạn này bê con còn rất yếu, hoàn toàn sống phụ thuộc vào mẹ, bộ máy tiêu hoá chưa phát triển hoàn chỉnh. Dạ dày tương tự dạ dày đơn , chưa có đủ 4 túi , bê con chưa nhai lại, hệ vi sinh vật chưa phát triển, chưa có đầy đủ các men tiêu hoá nên bê con chưa sử dụng được các loại thức ăn như : cỏ xanh , cỏ khô , rơm rạ thức ăn tinh bột , mà phải bú sữa mẹ bê con mới tồn tại . Sự phát triển của dạ dầy 4 túi phụ thuộc rất nhiều vào các loại thức ăn mà ta dùng cho bê ăn trong đó : cỏ khô , cỏ xanh , thức ăn tinh có tác dụng kích thích sự phát triển của dạ dày bê con . Nếu bê con được tập ăn sớm các loại thức ăn tinh , cỏ khô , cỏ xanh …sẽ giúp cho dạ dày bê con phát triển , chóng thích hợp với các loại thức ăn . Do đó khi cai sữa ở 5-6 tháng tuổi bê con sẽ sống và phát triển tốt . - Chăm sóc nuôi dưỡng : - Giai đoạn sơ sinh : Được tính từ khi sinh đến khi bê được 10 ngày tuổi . Thức ăn chủ yếu của bê giai đoạn này là sữa đầu . Sữa đầu là sữa được tiết ra từ bò mẹ ngay sau khi sinh và kéo dài 3-5 ngày. Sữa đầu rất quan trọng vì nó có hàm lượng chất dinh dưỡng rất cao và đặc biệt có nhiều kháng thể giúp bê con chống bệnh tốt . Sữa đầu đóng vai trò quan trọng bởi vì bê mới sinh ra cơ thể chưa có sẵn kháng thể để chống bệnh do đó bê dễ bị nhiễm bệnh . Thực tế cho thấy bê con nào không được bú no sữa đầu của chính mẹ nó thì bê yếu ớt , phát triển chậm, khả năng chống bệnh kém , bê hay bị ốm , nhiều con chết non . Cho bê bú sữa đầu càng sớm càng tốt bởi vì khả năng hấp thu chất kháng thể từ sữa đầu giảm nhanh trong vòng 2-4 ngày đầu và bê dễ nhiễm vi trùng gây bệnh sau khi mới được sinh ra , sữa đâu chứa những chất khoáng giúp tẩy sạch các chất thải trong đường ruột . Phương pháp cho bú : Sau khi đẻ 1 giờ, bê con phải được bú sữa đầu và bú mẹ trực tiếp ít nhất 4-5 lần / ngày , mỗi lần khoảng 1 lít . Cho bê bú từ từ, tránh tình trạng bê háu ăn, sữa tự rơi vào dạ cỏ gây lên men làm chướng bụng Chăm sóc: Giai đoạn này nên nuôi bê trong chuồng để đảm bảo vệ sinh, đảm bảo tỷ lệ nuôi sống cao, thời gian nuôi trong chuồng >15 ngày . Chuồng nuôi bê phải đảm bảo vệ sinh chuồng sạch sẽ , khô ráo . - Giai đoạn bú sữa Giai đoạn này tính từ ngày thứ 10 kéo dài đến khi cai sữa .Thức ăn giai đoạn này chủ yếu là sữa thường , thức ăn thay sữa và thức ăn tinh hỗn hợp Nếu bò mẹ đủ sữa , cai sữa bê ở 5-6 tháng tuổi . Đến thời điểm này tổng lượng sữa bê con có thể bú được từ 360- 500 kg . Nếu bò lai sind được chăm sóc nuôi dưỡng đầy đủ, bê con được thường xuyên tiếp xúc với mẹ thì bê con có thể bú đủ lượng sữa trên Tập ăn sớm cho bê con: Ngay từ tuần thứ 2 phải tập cho bê con ăn cám hỗn hợp bằng cách đặt 1 ít cám trong chuồng của bê , lượng cám tăng dần theo mức tiêu thụ của bê nhưng cũng không được quá 1kg/ ngày . Tập cho bê con ăn cỏ , rơm khô bằng cách đặt 1 ít ngay trong chuồng của bê . Việc tập cho bê con ăn cỏ rơm , cám ngày từ tháng đầu rất quan trọng vì các loại thức ăn này có tác dụng kích thích dạ dày bê con phát triển , hình thành dạ dày 4 túi có hệ vi sinh vật phát triển và đầy đủ các loại men tiêu hoá . Có như vậy khi cai sữa bê con ở 5-6 tháng tuổi bê mới có khả năng tiêu hoá được các loại thức ăn như cỏ xanh , cỏ khô , rơm , rạ … Chất thay sữa : Có thể dùng sữa đậu nành làm chất thay sữa hoặc tự sản xuất hỗn hợp bột thay sữa như sau : Bột đậu nành rang : 2 phần , bột gạo 1 phần . Khi sửa dụng pha 1 phần hỗn hợp bột này với 7 phần nước nấu thành cháo loãng cho bê bú Thức ăn tinh hỗn hợp : Gồm những nguyên liệu có chất lượng cao , không bị mốc . Hàng ngày cho bê ăn thức ăn mới , không để thức ăn tồn đọng trong 1 vài ngày . Thức ăn cho bê phải có tỷ lệ xơ thấp và Protein cao , trong thức ăn tinh các loại hạt không được nghiền mịn . Nên thêm vào thức ăn tinh cho bê 5 % rỉ mật để tăng tính ngon miệng Cám hỗn hợp : Có thể pha trộn theo công thức sau : - Bột sắn khô : 20 % ( Có thể thay = bột khoai lang , rong giềng …) - Cám gạo : 20 % ( Có thể thay = thóc xay , bột mỳ …) - Bột ngô : 40 % - Bột đậu tương : 8% ( Có thể thay = khô dầu các loại ) - Bột cá : 8% ( có thể thay = xác mắm ,các sản phẩm hải sản khác ) - Bột xương : 1% ( Có thể thay = bột thịt xương , bột sò , bột hến …) - Muối ăn : 2% .( Nhất thiết phải có ) - Premix : 1 % Chú ý : - ổn định giờ bê bú , từ tuần thứ 2 trở đi bê bú ngày 2 lần là đủ . - Nước uống : Hằng ngày phải cho bê uống nước đầy đủ, nước uống yêu cầu phải sạch sẽ và cho bê uống tự do , về mùa đông phải cho bê uống nước ấm có pha thêm ít muối . - Luôn để ý đến hoạt động của bê. Khi chúng ăn uống chậm, hoạt động kém, lông thô , ít bóng , màu sắc và thành phần chất thải khác thường chứng tỏ bê không được khoẻ - Chuồng trại khô ráo , sạch sẽ Tránh nền chuồng ướt lạnh , gió lùa và cho bê uống nước lạnh đột ngột , mùa hè hàng ngày tắm chải lông cho bê , mùa đông tắm chải lông vào trưa nắng ấm - Cỏ xanh cho bê con phải tươi non từ cỏ trồng hoặc cỏ tự nhiên , tất cả các loại cỏ , các loại rau dùng cho lợn , các loại lá như lá mít , lá sung , lá ngô , lá mía đều có thể dùng cho bê con ăn . - Từ 7-12 tháng : Đặc điểm giai đoạn này bê phát triển hệ thống tiêu hoá như bò trưởng thành, bê cái phát triển các tế bào tiết ở tuyến vú . Nếu nuôi quá béo sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của các mô tiết sữa của tuyến vú . Thức ăn tinh giai đoạn này giảm dần, lượng cỏ xanh tăng dần. Tăng dần lượng rơm đến khi ăn 3-4 kg / ngày . Khẩu phần có hàm lượng xơ từ 13 % lên 15 % , Protein thô 12 % - Từ 12-24 tháng : Đặc điểm giai đoạn này là có sự thành thục về tính . Thường bê cái động dục lần đầu ở 12 – 13 tháng tuổi , Bê lúc này đạt khoảng 40 % trọng lượng trưởng thành . Giai đoạn này chưa nên phối giống vì bê trọng lượng còn nhỏ , chưa thành thục về thể vóc . Chỉ phối giống lần đầu khi bê 14-15 tháng tuổi và đạt 70 % trọng lượng trưởng thành. Nuôi dưỡng chăm sóc giai đoạn này chú ý không để bê quá béo hoặc quá gầy ảnh hưởng tới tỷ lệ phối giống , đậu thai . Thức ăn chủ yếu là thức ăn thô , nếu có đủ cỏ tốt và thức ăn phụ phế phẩm thì không cần bổ sung thức ăn tinh hỗn hợp . Tuy nhiên khẩu phần phải đủ năng lượng , phốt pho , vi ta min A , nếu thiếu thì bê sẽ chậm hoặc không động dục . Khối lượng thức ăn hỗn hợp cho bò tơ lỡ / ngày đêm : Cỏ xanh : 25 kg, Cỏ khô 1 kg, Củ quả 0.5 kg Thức ăn tinh hỗn hợp : 1,2 kg Chăm sóc Hàng ngày chải lông , ve , tác động bầu vú ,( dùng khăn nhúng nước nóng vắt ráo xoa khắp bầu vú từ ngoài vào trong 5-7 vòng , sau đó vuốt đến các núm vú ) Mùa hè tắm 1-2 lần / ngày . mùa đông tắm ít nhất 1-2 lần/ tuần vào các trưa nắng ấm . Cho bò vận động 1-2 giờ , nước uống đầy đủ . Vệ sinh máng ăn máng uống hàng ngày , chuồng trại sạch sẽ thoáng mát . Khi phát hiện bò động dục phải ghi sổ và báo cán bộ kỹ thuật phối giống kịp thời hoặc cho bò đực giống nhảy. 3. 1- Chăm sóc cho bò cái có chửa. Dựa vào sự phát triển của bào thai người ta chia ra 2 giai đoạn chủ yếu để nuôi dưỡng chăm sóc bò cái có chửa: + Giai đoạn 1: Từ khi phối có chửa đến 7 tháng Ở giai đoạn này bào thai chủ yếu bào thai chủ yếu là hoàn thiện các cơ quan của cơ thể. Sự sinh trưởng và phát triển của giai đoạn này thấp vì thế mà nhu cầu dinh dưỡng không cao. Nhưng ở giai đoạn này các chất dinh dưỡng thức ăn được sử dụng mạnh mẽ. Vào tháng từ 1- 4 tỷ lệ tiêu hoá VCK và chất hữu cơ gần như không biến đổi: 63,96 % và chát hữu cở là 70,01 %. Trong khi đó bò có chửa ở tháng thứ 8 thì tỷ lệ tiêu hoá các chất trên giảm: vật chất khô 27.59 %, chất hữu cơ 66,81 %. Tức lầ hơn bò có chửa giai đoạn đầu tương ứng là 6,06 và 3,39 %. Mặt khác tỷ lệ tiêu hoá protein cũng giảm xuống 19,05 %, mỡ 14,85 %, Xơ 12,33 % Vì vậy cấu trúc khẩu phần ăn ở giai đoạn 1 có thể dùng nhiều chất xơ hơn như cỏ xanh, cỏ khô...khẩu phần ăn phải cân đối lượng dinh dưỡng đặc biệt là Vitamin và chất khoáng. Nếu bò cái mang thai ở giai đoạn 1 mà vắt sữa thì cần phải tính nhu cầu dinh dưỡng riêng cho vắt sữa và bào thai. Khẩu phần ăn bò cái có chửa giai đoạn 1 cầu cần được ăn uống đầy đủ mỗi ngày 25-30 kg cỏ tươi (lượng cỏ tươi tương đương 10 - 12 % trọng lượng bò). 1-2 kg rơm ủ hoặc rơm trộn rỉ mật. 1 kg hỗn hợp (ngô, cám gạo, 30-40 g bột xương, 10-15 g muối). + Giai đoạn 2: là tiếp giai đoạn 1 đến đẻ ( 7 - 9 tháng 10 ngày) Lúc này bào thai sinh trưởng mạnh nhanh, chèn lẫn ép xoang bụng , khả năng đồng hoá thức ăn kém hơn trước cho nên giai đoạn ngoài cung cấp đủ dinh dưỡng cho gia súc và thai, cần phải chọn những loại thức ăn có giá trị ginh dưỡng cao dẽ tiêu hoá với dung tích nhỏ nhưng vẫn đáp ứng đủ dinh dưỡng, như vậy cần phải giảm thức ăn thô tăng thức ăn tinh Khẩu phần ăn bò cái có chửa giai đoạn 2: Bò cái có chửa cần được ăn uống đầy đủ mỗi ngày 20-35 kg cỏ tươi (lượng cỏ tươi tương đương 10-12 % trọng lượng bò). 3 - 5 kg rơm ủ hoặc rơm trộn rỉ mật. Cám hỗn hợp 1,5 - 2,5 kg hỗn hợp (ngô, cám gạo, 30-40 g bột xương, 10-15 g muối). + Chăm sóc : Bò cái mang thai không nên bắt bò làm việc nặng như cày bừa, kéo xe. Không chăn thả ở bãi chăn dốc trơn. Bò cái gần đẻ phải theo dõi hộ lý cho bò đẻ... 3.2- Triệu chứng bò sắp đẻ: bò có hiện tượng sụt mông, bầu vú căng, núm vú chỉa về hai bên, niêm dịch (nhựa chuối) treo lòng thòng ở mép âm môn, chân cào đất, bò đứng lên nằm xuống, ỉa đái nhiều lần có cơn rặn mạnh, bọc ối thò ra ngoài 1 ngày trước khi sinh Bò mẹ phải được tắm chải sạch sẽ . Chuồng trại phải được vệ sinh tẩy uế sạch sẽ . - Trước khi đẻ ít giờ tử cung bắt đầu co bóp, trong giai đoạn này bò mẹ bồn chồn, đứng nằm không yên. Thai được đẩy về phía cổ tử cung . - Trong thời gian này tư thế thai đã được xác định. Thai thuận :nằm sấp hai chân trước duỗi thẳng, mõm gác lên chân hoặc 2 chân sau ra trước đuôi của thai nằm giữa 2 chân duỗi thẳng và bằng nhau (Nếu chiều hướng , tư thế thai không ở hai trường hợp trên nằm trên là bò đẻ khó ). Thông thường bê được sinh ra trong vòng 1-2 giờ sau khi 2 chân trước đã ló ra . Nếu sau 1-2 giờ bê chưa ra cần gọi cán bộ thú y kiểm tra tư thế của thai để can thiệp. Sau khi sinh bê xong, tử cung tiếp tục co bóp để đẩy màng thai, nhau thai ra ngoài . Nếu sau 12 giờ nhau thai không ra thì coi như là sót nhau . Do đó cần phải theo dõi để xử lý kịp thời Lưu ý : - Khi bò đẻ hứng nước ối , khi bò đẻ xong cho bò mẹ uống nước ối có pha ít muối. - Thụt nước muối 5% 1 - 2 lít vào tử cung bò sau khi bò đẻ xong và nhau thai đã ra - Bê con mới sinh ra phải được làm sạch màng nhau , nước ối bằng cách cho bò mẹ tự liếm bê con hoặc lấy giẻ khô sạch lau sạch cho bê con . Chú ý móc màng nhau từ miệng của bê con để bê con khỏi bị ngạt . Bóc móng để bê đỡ bị trơn trượt . Cắt rốn cho bê ( 10-12 cm ) bôi thuốc sát trùng chống ruồi nhặng . - Nếu bê bị ngạt : Phải hà hơi thổi ngạt , hô hấp nhân tạo , dùng cuống rơm , lông gà ngoáy vào hố mũi , dốc ngược bê xuống dội nước lạnh lên vùng ngực, vùng đầu Khi bê có hiện tượng đứng dậy muốn bú phải đỡ cho bê đứng dậy bú sữa đầu chậm nhất là 1 giờ bê con phải được bú sữa đầu (Trước khi cho bê bú phải lau sạch phần thân sau của bò, bầu vú , núm vú ). 3.4- Chăm sóc bò mẹ sau khi đẻ: + Trong vòng 15-20 ngày đầu sau khi đẻ, cho bò mẹ ăn cháo pha thêm 0,5-1 kg thức ăn tinh/ ngày, cho thêm 30- 40 g muối, 20-30 g bột xương và có đủ cỏ xanh ăn tại chuồng (cỏ nên rửa sạch để khô mới cho ăn) + Trong suốt thời gian nuôi con, một ngày cho bò mẹ ăn đủ 30-35 kg cỏ (10% 12 % trọng lượng cơ thể); 2-3 kg rơm ủ hoặc rơm tới rỉ mật, 1-2 kg cám tinh để bò mẹ phục hồi sức khỏe mau chóng động dục trở lại - Một số trường hợp đẻ khó, cách xử lý Trường hợp đẻ khó là trường hợp thai ở tư thế thai nghịch, Thai quá to. Bò mẹ yếu, tử cung hẹp,...Một số trường hợp bò đẻ khó thường gặp: + Đầu thai ra trước, đầu cổ ngẹo về một bên Thai lúc này có 2 chân trước lọt vào đường sinh sản còn đầu ngẹo về một bên thân, gia súc mẹ không đẻ được Nguyên nhân: Do thai hoạt động không mạnh hoặc do tử cung co bóp quá mạnh hoặc cổ tử cung mở không phối hợp với nhịp co bóp tử cung hay mở không kịp thời, màng thai vỡ sớm nên nước ối tràn ra sớm và hết nước ối thành tử cung ép chặt lấy thai Đỡ đẻ: Nếu nhẹ: Chỉ dùng tay nắm mõm thai kéo ra xoay đầu là được. Nếu nặng: Phải phong bế màng cứng tuỷ sống để hạn chế con mẹ rặn. Mặt khác dùng dụng cụ đẩy thai lùi lại (tì vào ngực thai) sau đó thì kéo đầu thai cho đúng hướng, sau đó mới kéo thai ra được. + Đầu gập xuống dưới: trường hợp này đầu thường gập xuống giữa 2 chân trước Nguyên nhân: Do thai yếu nên không phản ứng kịp khi con mẹ đẻ. Trán và đỉnh đầu ra trước, đầu lọt vào hố chậu mõm chưa ruỗi thẳng được. Lúc này tử cung tiệp tục co bóp con mẹ rặn thì mõm bị chúc xuống dưới cứ thế tiếp tục tử cung co bóp, con mẹ rặn đầu thai chui xuống ngực thai lúc này cổ và 2 chân trước ra trước. Đỡ đẻ: Trường hợp đỉnh đầu ra trước, cần đẩy thai lùi vào trong tử cung, tay kia móc vào xương hàm dưới của thai kéo thai ra ngoài theo đường sinh dục vào hố chậu. + Vai ra trước: là trường hợp cổ thai đã lọt vào đường sinh sản mà phần dưới khớp vai của một hoặc 2 chân trước còn nằm ở dưới thân không lọt vào đường sinh sản được. Đỡ đẻ: Tuỳ theo thai to hay nhỏ, một chân hay 2 chân không bình thường mà quyết định. Đầu tiên điều chỉnh cho chân thành vị trí đầu gối ra trước, sau đó đến điều chỉnh cho cho chân thẳng ra . Trong lúc điều chỉnh phải đẩy thai vào phía trong tử cung để dễ điều chỉnh.
4. Các nguyên nhân và một số biện pháp nâng cao khả năng sinh sản
4.1- Nguyên nhân: Có nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng tỷ lệ thụ thai kém ở bò - Nguyên nhân từ bò cái : + Giống : Các giống bò khác nhau có tỷ lệ thụ thai khác nhau . Bò địa phương tỷ lệ thụ thai cao hơn các giống bò lai , nhập nội, nguyên nhân do bò có tỷ lệ máu lai cao khả năng thích nghi kém hơn và do chế độ nuôi dưỡng chăm sóc chưa tốt , khẩu phần chưa phù hợp , chuồng trại kém … + Lứa đẻ : Bò đẻ lứa thứ 2-thứ 5 tỷ lệ thụ thai cao hơn bò tơ . Nhưng bò càng lớn tuổi thì tỷ lệ thụ thai càng giảm . + Nuôi dưỡng chăm sóc : Đây là yếu tố cơ bản gây nên tình trạng thụ thai thấp ở bò . Trường hợp khẩu phần thiếu cỏ xanh , nhất là vào mùa khô thì bò có tỷ lệ thụ thai thấp . Khi bò được nuôi dưỡng tốt, khẩu phần đầy đủ cỏ xanh thì các loại vitamin và các hocmon thực vật có trong cỏ giúp bò có khả năng sinh sản tốt hơn + Bệnh lý : Khi bò mắc 1 số bệnh , đặc biệt là bệnh sản khoa , viêm nhiễm đường sinh dục gây nên tình trạng thụ thai kém . Khi bò đẻ sót nhau thì tỷ lệ thụ thai kém hơn so với bò sinh sản bình thường . Stress nhiệt cũng làm giảm tỷ lệ thụ thai . - Chất lượng tinh : Chất lượng tinh kém và tình trạng bảo quản tinh không tốt ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ thai của bò sưã . + Kỹ thuật DTV : Tay nghề và tinh thần trách nhiệm của dẫn tinh viên cũng là yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ thai của bò ở chỗ xác định thời điểm phối giống không đúng , kỹ thuật phối giống chưa tốt dễ gây nên bệnh viêm nhiễm tử cung bò . 4.2- Các biện pháp nâng cao tỷ lệ thụ thai cho bò : - Xác định đúng thời điểm phối giống thích hợp . Do đặc điểm thời gian động dục của bò ngắn nên cần nắm vững các triệu chứng động dục . Phát hiện bò động dục kịp thời để phối giống cho bò . Sử dụng quy luật phối giống “Sáng , chiều “, nếu bò động dục buổi sáng thì phối giống vào buổi chiều , nếu bò động dục vào buổi chiều thì tiến hành phối giống vào sáng hôm sau . Nên phối kép là tốt nhất . Lần đầu phối vào lúc bò cái chịu đực và sau 6 giờ phối lần 2 . - Sau khi phối giống gia đình tiếp tục theo dõi . Sau khi phối giống gia đình cần để bò tại chuồng khoảng 3-4 giờ để theo dõi , không thả bò ra ngoài bãi chăn tránh bò đực cóc nhảy . Theo dõi khoảng 20 ngày sau nếu thấy bò động dục trở lại tiếp tục cho cho phối giống lại . - Sau 3 tháng khám thai để xác định bò có chửa hay không ? - Điều trị kịp thời bò chậm sinh : Bò cái tơ 3 năm chưa động dục và bò sau khi đẻ 5- 6 tháng trở lên không động dục trở lại dùng HTNC để kích thích (Liều 5-8đv/kgP) hoặc dùng vòng CueMate đặt để kích thích bò động dục . - Phòng bệnh sát nhau và viêm nhiễm đường sinh dục sau khi đẻ : - Khi bò đẻ hứng nước ối , khi bò đẻ xong cho bò mẹ uống nước ối có pha ít muối . - Thụt nước muối 5% 1-2 lít vào tử cung bò - Nếu có hiện tượng sát nhau phải xử lý kịp thời .
V. CÔNG TÁC VỆ SINH THÚ Y Để đảm bảo sức khỏe cho đàn bò cần thực hiện quy trình phòng bệnh tổng hợp cho bò bao gồm các biện pháp kỹ thuật chủ yếu sau đây: 1) Khi nhập bò giống cần mua bò từ các cơ sở không có lưu hành các loại dịch nguy hiểm trong cùng thời điểm. Bò mua về phải nhốt cách ly theo dõi 2-3 tuần không có triệu chứng mới cho nhập đàn. 2) Thực hiện tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho bò: vacxin lở mồm long móng, vacxin tụ huyết trùng, vacxin Lepto theo định kỳ 6 tháng/lần, vacxin nhiệt thán nhược độc 12 tháng/lần. Nếu bò mới nhập về thì tổ chức tiêm phòng vacxin sau thời gian nuôi cách ly. 3) Tổ chức sử dụng thuốc đặc hiệu tiêm phòng hoặc cho uống thuốc phòng nhiễm một số bệnh ký sinh trùng gây hại cho bò như: Trypamidin-phòng nhiễm sán lá gan, Han Dertyl B phòng nhiễm sán lá gan theo định kỳ 6 tháng/lần, Levamisol hoặc Tetramisol phòng nhiễm giun đũa cho bê non theo định kỳ 4 tháng/lần. 4) Thực hiện tốt vệ sinh chuồng trại: xây dựng chuồng xa khu dân cư, đảm bảo luôn khô sạch, thoáng mát mùa hè, kén ấm mùa đông, có thể chống rét cho bò khi nhiệt độ hạ thấp (trên dưới 100C); định kỳ sử dụng thuốc sát trùng 2 tuần/lần, khi có dịch phun thuốc sát trùng 1-2 lần/tuần.
Sử dụng 1 trong các loại thuốc sát trùng thông thường sau: Han Iodin 10% (khi phun pha thành dung dịch với nước 1% ở chuồng không có bò và ở chuồng đang có bò với nồng độ 0,5%; Halamid 3%; Hantox 200 pha thành dung dịch 5%), nước vôi 10%, rắc vôi bột. 5) Thực hiện ủ phân bò và rác thải từ chuồng bò để diệt các loại mầm bệnh trước khi bón ruộng. Nơi có điều kiện làm bể Biogas vừa để xử lý mầm bệnh, vừa để tận thu, sử dụng khí gas phục vụ chăn nuôi. 6) Giải quyết đủ thức ăn cho bò với đầy đủ chất dinh dưỡng. Trồng thức ăn xanh cho bò (cỏ voi, cỏ Goatemala, ngô dày...) với diện tích 150-200m2/bò; quản lý tốt bãi chăn thả bò, bổ sung thức ăn hỗn hợp hoặc thức ăn tinh và các premix khoáng và premix vitamin vào khẩu phần ăn theo lứa tuổi, dự trữ đủ rơm, cỏ khô cho bò trong vụ đông xuân phòng tránh đói rét cho bò. Thức ăn cho bò cũng phải đảm bảo sạch, không có hóa chất độc, không có các loại hormon kích thích sinh trưởng và không có độc tố nấm mốc theo quy định của Cục Chăn nuôi và Cục Thú y. 7) Đảm bảo cung cấp đủ nguồn nước sạch, không bị ô nhiễm các chất độc (thuốc bảo vệ thực vật, độc tố nấm, muối nitrat và nitrit), đồng thời cũng không bị nhiễm vi sinh vật có hại (vi khuẩn thương hàn) hoặc có số lượng dưới mức cho phép (vi khuẩn Ecoli) trong nguồn nước cho bò. Khi có lũ lụt thì cần xử lý nước bằng Cloramin T, B (300g/m3nước) để diệt vi sinh vật gây bệnh. 8) Nuôi dưỡng và chăm sóc bò theo lứa tuổi và theo mục đích sử dụng, đảm bảo nguồn thức ăn và nước sạch, phù hợp với sự phát triển của bò để bò tăng trọng nhanh, đạt hiệu quả kinh tế cao. 9) Tăng cường hệ thống thú y ở địa phương gồm tập huấn nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ thú y về phòng trị bệnh cho bò, cung cấp phương tiện và dụng cụ cho hệ thống thú y để có thể giám sát, phát hiện sớm bò bị bệnh và điều trị kịp thời, giảm thiệt hại do dịch bệnh gây ra ở bò ở mức thấp nhất. 10) Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc công tác kiểm dịch khi xuất, nhập bò với sự giám sát (cho phép) của cơ quan thú y có thẩm quyền để khống chế sự lây lan dịch bệnh từ bên ngoài vào cơ sở chăn nuôi bò và ngược lại.
VI- MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP TRONG CHĂN NUÔI BÒ SINH SẢN 1- Bệnh sát nhau. Thông thường bò cái sau khi đẻ 4 – 6 giờ là bong nhau ra và toàn bộ nhau thai bị đẩy ra ngoài. Nhưng nhiều trường hợp chủ yếu do đẻ khó, nhau thai còn lưu lại lâu hơn thì gọi là sát nhau. Trong thực tế có khoảng 10 % ca đẻ là sát nhau, trường hợp nuôi nhốt chuồng thì tỷ lệ cao hơn chiếm đến 25 % Sát nhau dẫn đến viêm nhiễm, hoại tử cơ quan sinh sản, nhiễm trùng máu gây vô sinh và nặng hơn bò cái bị chết. + Nguyên nhân: - Do nuôi dưỡng không tốt, khi mang thai bò cái quá ít vận động, nên khi đẻ bò mẹ yếu không đủ sức rặn đẩy nhau thai ra ngoài. - Bò mẹ qúa gầy, quá béo, thai quá to, tử cung phải giãn nở quá mức khi đẻ nên bò mẹ chóng mệt không đủ sức rặn đẩy nhau thai ra ngoài. - Tử cung bị dãn mạnh, phục hồi kém - Sẩy thai, đẻ non là nguyên nhân dẫn đến sát nhau + Triệu chứng: Nhau còn lưu lại trong đường sinh dục cái nhiều khi nhau còn treo lơ lửng ở âm hộ bò cái rất dễ nhìn thấy. Bò cái đẻ xong không yên tĩnh, cong lưng cố rặn để đẩy nhau ra ngoài . Bò cái mệt mỏi, ít ăn, hơi sốt, giảm sữa, ỉa đái ít một. + Phòng bệnh: - Chăn thả bò cái có chửa để cho bò cái có cơ hội vận động - Cho bò cái ăn uống đầy đủ dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai để bò cái có sức rặn đẻ và rặn đẩy nhau thai ra ngoài sau khi đẻ. - Xử lý ngay các ca đẻ khó để hỗ trợ cho bò cái để chóng mệt lả, không đủ sức rặn đẩy nhau thai ra ngoài. - Cho bò cái uống nước ối của chính ca đẻ đó để kích thích bò cái đẻ và rặn nhau thai ra ngoài + Chẩn đoán: Sát nhau rất dễ chẩn đoán nếu nhau thai còn trêo lơ lửng ở âm hộ, trong trường hợp nhau thai sát trong âm đạo, tử cung thì thăm khám để xác định. + Điều trị: - Tiêm Oxytoxin dưới da với liều 5-6đv/100kg thể trọng 2 lần trong ngày hay tiêm tĩnh mạch 10-15 đv ( 2-3 ml) kết hợp với 40-50 ml dung dịch glucose 10 % - Dùng 1 – 2 lít dung dịch nước muối (Clorua natri ) 5 % để thụt rửa tử cung - Biện pháp bóc nhau: Chỉ bóc nhau sau 12 giờ hoặc bảo tồn bằng kháng sinh ( đặt kháng sinh tổng hợp vào 2 buồng tử cung); Thụt nước muối 5 % ấm 15 – 20 0 c vào tử cung 1 -2 lít, sau đó dung tay bóc nhau, bóc từng núm nhau một, từ ngoài vào trong, tránh làm xây sát, chảy máu và không làm đứt núm nhau mẹ. Sau đó đặt thuốc kháng sinh tổng hợp vào 2 buồng trứng ( Viên đặt tử cung) vào 2 buồng tử cung. Vệ sinh sạch sẽ cơ quan sinh dục bò mẹ, tiêm bắp ngày 1 lần bằng thuốc kháng sinh để chống nhiễm trùng máu Sau 2 -3 ngày tiếp tục thụt rửa tử cung bằng dung dịch Rivanol 2 % từ 0,5 – 1 lít hoặc Lugol 2 % ( ngày 1 lần ) đến khi dich trong là được. 2. Bệnh viêm tử cung – Âm Đạo Bệnh viêm tử cung - âm đạo ở bò cái sinh sản là căn biệm viêm nhiễm ở phần niêm mạc của âm đạo, cổ tử cung, thân tử cung sừng tử cung Khi âm đạo,tử cung bị viêm nhiễm thì mọi hoạt động sinh sản của bò sẽ bị ngừng hoạt động hoặc bị rối loạn, nếu có thụ tinh thì khả năng đậu thai cũng kém dẫn đến việc đẻ con, cho sản phẩm bị ngừng trệ, Nếu bị nặng có thể trở thành vô sinh và chết. - Nguyên nhân: + Do rối loạn chức năng nội tiết, các bệnh buồng trứng kế phát như bệnh thể vàng tồn lưu lâu dài dẫn đến viêm tử cung. Do đẻ khó tử cung bị tổn thương và nhiễm trùng. Do bò cái bị sát nhau, khi bóc nhau không đúng kỹ thuật làm xây sát niêm mạc tử cung gây viêm . Do một số bệnh như sẩy thai truyền nhiễm ( Brucellosis), bệnh phẩy khuẩn - Triệu chứng: + Vùng đuôi và âm hộ thường bết dinh niêm dịch, để lâu sẽ khô tạo thành lớp màng mỏng dính xung quanh vùng âm hộ. Bò cái thường ít ăn, đôi khi thân nhiệt cao. Bò cái thường cong lưng và có hiện tượng co rặn làm chảy ra từ âm đạo dịch nhờn có lẫn mủ và hoặc nước vàng. Khi bò cái nằm thường có niêm dịch chảy ra khá nhiều bám ở âm hộ, đuôi và rơi trên nền chuồng rất dễ nhận biết, nhất là về ban đêm - Phương pháp chẩn đoán * Quan sát triệu chứng: quan sát các triệu chứng bò cái ít ăn, giảm sữa, thân nhiệt cao bò cái đứng cong lưng và rặn như phản xạ đái hoặc đẻ. Quan sát chất nhờn chảy ra có màu nâu đục, nước vàng ... - Phương pháp điều trị + Thụt rửa tử cung bằng dung dịch Rivanol 1 % với liều lượng từ 1- 2 lít, thuốc tím 1 % hoặc nước muối ( Clorua natri ) 10 % ngày 1 lần sau khi thụt rửa đợi hay kích thích cho dung dịch thụt rửa đẩy ra hết, dùng Neomycin 12mg/kg thể trọng thụt vào tử cung ngày 1 lần. Liệu trình điều trị từ 3 -5 ngày 3. Bệnh bại liệt sau khi đẻ Là bệnh thiếu hụt calxi huyết,thường xẩy ra sau khi sinh một thời gian ngắn. Bệnh thưởng gặp ở bò sữa cao sản và không phổ biến ở bò cái đe lần thứ 2. đặc điểm bệnh lý: lượng caxi trong máu bò cái ở thời kỳ nuôi con bằng sữa giảm xuống đột ngột dẫn đến tình trạng bệnh. Triệu chứng lâm sàng: Bò cái kém ăn hoặc bỏ ăn; nhu động dạ cỏ giảm; chướng hơi nhẹ,lượng sữa giảm. Con vật ủ rũ mắt lờ đờ không muốn đi lai, chân sau lảo đảo, đứng không vững; run rẩy; các bắp thịt run run, co giật, Sau đó bò cái thở mạnh,chảy nước dãi, , nhiệt độ đột ngột tăng cao 40 – 410c, bò cái ngã lăn, bốn chân run rẩy không đi lại được. Những triệu chứng trên xuất hiện rất nhanh, trong một thời gian ngắn. Nếu không điều trị kịp thời thì sau 12-48 giờ 60 % số bò mắc bênh bị chết. Trường hợp nhẹ: Bò cái có biểu hiện; khô mũi, ăn ít, đi lại khó khăn,xiêu vẹo, nếu không phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dấn đến liệt chân. Điều trị: Truyền dung dịch Gluconate Calcium 10 % vào tĩnh mạch, Liều 1ml/ 1-2 kg thể trọng truyền liên tục vài ngày.Trợ tim mạch: tiêm Cafein và Vitamin B1, - Hộ lý: Làm gióng cho gia súc đứng, để gia súc nằm yên tĩnh; giữ gìn vệ sinh nơi bò bệnh nằm để tránh viêm phối và viêm vú thứ phát. Chăm sóc cho súc vật sau khi đứng dậy; đi lại được. Đặc biệt tăng lượng cãni trong khẩu phẩn ăn hàng ngày, cho ăn 200 g cốm can xi D/ngày,cho ăn liên tục 6 ngày.
4. Bệnh chướng hơi dạ cỏ ở trâu bò Bệnh này thường xảy ra ở trâu bò vào thời điểm chuyển tiếp giữa mùa đông và mùa xuân, nhất là vào mùa xuân, lúc cỏ non có nhiều.
Tác nhân gây bệnh - Bệnh sinh ra do gia súc ăn nhiều thức ăn dễ lên men. Thức ăn trong dạ cỏ lên men sinh hơi nhanh, cơ thể điều tiết không kịp, hơi ứ đọng làm cho dạ cỏ chướng lên, ép vào cơ hoành, ảnh hưởng tới hô hấp và tuần hoàn. - Các thức ăn như rơm, cỏ bị mốc, các loại cỏ thuộc họ đậu, cỏ bị ướt sương đêm, cỏ bị ngập nước lâu có lẫn nhiều đất hoặc bùn... Bệnh cũng có thể do bê nghé bú phải sữa chua hoặc bú vội, sữa lọt vào dạ cỏ không tiêu. Con vật đang ăn cỏ khô (mùa đông) chuyển sang ăn cỏ xanh (mùa xuân) hoặc ăn quá nhiều thực ăn tươi như ngọn ngô, ngọn mía. Trong dạ cỏ của súc vật nhai lại có hơn 50 loài đơn bào và vi sinh vật có khả năng phân huỷ chất xơ của rơm cỏ và sinh hơi. Khi các sinh vật này tăng lên nhanh cũng dẫn đến việc sinh quá nhiều hơi và chướng bụng ở trâu bò. * Bệnh còn sinh ra do nhiều nguyên nhân khác - Do nhu động dạ cỏ giảm (do vật nuôi yếu) - Do vật nuôi phải làm việc nhiều, do việc vận chuyển vật nuôi đi xa mệt nhọc. - Bệnh phát sinh còn do kế phát từ bệnh liệt dạ cỏ, viêm dạ tổ ong... hoặc gia súc nằm liệt lâu ngày. Do tác động của vi sinh vật trong dạ cỏ, gặp điều kiện thuận lợi nóng ẩm, thức ăn lên men nhiều làm cho quá trình sinh ra các chất khí tăng nhanh.
Triệu chứng - Bệnh xuất hiện rất nhanh, con vật biểu hiện đau bụng luôn ngoảnh lại nhìn bụng, bụng chướng to, thở khó, tần số hô hấp tăng, hai chân dạng ra, lưỡi thè, chảy dãi, có thể nằm giãy giụa và chết. - Nhiều khi do bụng chướng to, 2 - 3 giờ sau hõm hông bên trai to lên, cao hơn cả xương sống, lấy tay ấn vào thấy căng như mặt trống, gõ vào vùng đó như gõ trống. Nghe vùng dạ cỏ thấy nhu động dạ cỏ lúc đầu tăng, sau giảm dần và cuối cùng thì mất hẳn. - Con vật bỏ ăn, đi táo, rối loại về tuần hoàn và hố hấp, niêm mạc mắt, mũi tím bầm. Cuối cùng con vật trúng độc, ngạt thở và chết. Điều trị - Nguyên tắc: làm thế nào để hơi ra được, xoa bóp để kích thích dạ cỏ tăng cường nhu động. Việc gây ợ hơi có hai cách: Cho trâu bò ngậm giẻ có tẩm nước gừng, nước tỏi để kích thích gây ợ hơi và cho con vật đứng hai chân phía trước cao hơn hai chân phía sau để hơi thoát ra dễ dàng, hoặc dội nước lạnh vào nửa thân sau. - Thải trừ chất chứa: Dùng Natri sulfat hoặc Magiê sulfat 200 - 500g cho uống một lần. Có thể dùng nước lạnh thụt vào trực tràng và moi phân ở trực tràng ra. - Dùng thuốc trợ tim Cafein 10 - 15ml (trâu, bò) - Dùng ống thông dạ cỏ cho ợ hơi ra. - Cuối cùng, dùng các biện pháp trên không chữa được thì phải chọc troca qua dạ cỏ để tháo hơi ra từ từ. Cách chọc Troca: sát trùng hõm sườn trái; dùng troca chọc thẳng đứng với mặt da; rút lõi sắt của troca; giữ ống troca cho hơi ra từ từ, sau khi hơi ra khoảng 80 - 90% (ước lượng) rút ống troca; trước khi rút bơm vào 2.000.000 UIPenicillin để chống nhiễm trùng.
Phòng bệnh - Không cho trâu bò ăn thức ăn ôi, mốc, tránh các nguyên nhân gây nên bệnh. - Không cho trâu bò vật nuôi uống nước bẩn. - Con vật ăn xong thì phải cho nghỉ ngơi một thời gian Khi đến mùa cỏ non, trước khi trâu bò đi ăn phải cho ăn rơm, cỏ khô trước ở nhà để rơm, cỏ khô sẽ hút bớt nước trong cỏ tươi làm giảm sự lên men. 5. Lở mồm long móng Phân bố: - Bệnh Lở mồm long móng (LMLM) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính chung cho nhiều loài gia súc và một số loài thú hoang, có thể lây từ súc vật sang người. - Bệnh có ở nhiều nước trên thế giới. - Ở nước ta, hàng năm bệnh thường xảy ra ở một số tỉnh, đặc biệt là các tỉnh miền núi biên giới Việt - Trung, Việt - Lào và Việt - Campuchia, gây nhiều thiệt hại kinh tế cho chăn nuôi trâu bò. Nguyên nhân:
- Bệnh gây ra do virut LMLM. Trâu bò nước ta bị bệnh do hai chủng virut là: chủng A và chủng Asia 1, ít lây sang lợn. Ngoài ra còn chủng virut O gây bệnh chủ yếu cho lợn, cũng có thể lây sang trâu bò. Gần đây, đã phát hiện chủng virut O1 vừa gây bệnh cho lợn, vừa gây bệnh cho trâu bò. - Virut tồn tại từ 2 - 4 tuần lễ ở chuồng trại và môi trường tự nhiên; từ 4 - 12 tháng trong thịt đông lạnh (00C).
Mụn nước loét ra ở kẽ móng của bò bệnh
- Virut bị diệt dưới ánh sáng mặt trời sau 1 giờ và các thuốc sát trùng thông thường: Iodin 1%, Clorin 3%, dung dịch xút 3%, Formol 2%, Crezin 5%, Bencocide 2%,Virkon 0,5%, nước vôi 10%, vôi bột...Triệu chứng: Thời gian ủ bệnh: từ 2 - 7 ngày. Bò bệnh thể hiện: - Sốt cao 41 - 420C trong 2-3 ngày, chảy nước mắt nước mũi khi sốt. - Chảy rãi liên tục, trắng như bọt xà phòng từ ở miệng thành sợi xuống đất. - Niêm mạc mũi miệng, lợi răng, trên mặt lưỡi mọc các đám mụn đỏ, sau mọng nước, trắng ra và vỡ loét, để lại các vết sẹo nhiều màu: đỏ, vàng, xám... làm cho súc vật bệnh đau đớn khó ăn uống.
- Ở quanh các móng chân cũng mọc mụn loét giống ở miệng vỡ loét ra, có thể bị nhiễm trùng và bong móng chân làm cho súc vật đi lại rất khó khăn, nằm một chỗ. - Một số trường hợp bò bệnh có biến chứng viêm ruột, ỉa chảy, phân có máu và chết nhanh. - Súc vật non có thể có biến chứng viêm cơ tim cũng chết rất nhanh. - Bò cái bị bệnh thường có mụn loét ở núm vú, bầu vú giống như ở miệng. - Bò cái mang thai khi bị bệnh thường xảy thai. - Bò trưởng thành bị bệnh chết với tỷ lệ 3 - 5%. Bê non bị bệnh chết với tỷ lệ cao hơn. Điều kiện lây truyền bệnh: - Các loài thú nuôi: trâu, bò, dê, cừu, lợn và các loài thú hoang: trâu rừng, bò rừng, hươu, nai, lợn rừng... ở các lứa tuổi đều bị bệnh. Bê nghé non bị bệnh nặng hơn và chết với tỷ lệ cao hơn trâu bò trưởng thành. - Bệnh lây qua đường hô hấp: do súc vật hít thở không khí có virut và đường tiêu hoá do súc vật ăn thức ăn và uống nước có mầm bệnh. - Súc vật bệnh và súc vật mang virut là nguồn tàng trữ và làm lây truyền virut trong đàn gia súc - Trâu bò sau khi khỏi bệnh vẫn mang và thải virut từ 2 - 5 tháng, đôi khi kéo dài 12 tháng; Ở quanh móng chân cũng có những đám mụn loét như ở miệng, có thể làm bong móng..; Bò cái bệnh có mụn loét ở núm vú và bầu vú; Các ổ dịch LMLM có thể xảy ra quanh năm, nhưng thường xuất hiện nhiều vào các tháng nóng ẩm từ tháng 4 đến tháng 9. Điều trị: Hiện không có thuốc điều trị đặc hiệu. Tuy nhiên, người chăn nuôi vẫn dùng các dung dịch thuốc sát trùng, như: Xanh Methylen 5‰, Iodin 1‰ các dịch lá chát (lá ổi, lá sim) bôi vào các ổ lở loét ở miệng và chân móng, sau 10 - 12 ngày, trâu bò có thể khỏi bệnh về lâm sàng. Nhưng trâu bò này vẫn có thể mang và thải virut sau một thời gian, làm lây nhiễm bệnh sang đàn gia súc khoẻ. Phòng bệnh: Khi chưa có dịch: Tổ chức tiêm phòng vacxin phòng bệnh LMLM cho đàn trâu bò ở các ổ dịch cũ và vùng có nguy cơ phát dịch theo định kỳ 12 tháng/lần. Mỗi lần trâu bò phải tiêm 2 mũi, mũi đầu cách mũi thứ 2 từ 4 - 6 tuần tuổi. Cách sử dụng vacxin + Nếu trâu bò có miễn dịch từ mẹ truyền cho thì tiêm mũi đầu vào 3 - 4 tháng tuổi; tiêm nhắc lại lần 1vào: 4 - 6 tuần sau khi tiêm mũi đầu; tiêm nhắc lại lần 2 vào: 4 - 6 tháng sau khi tiêm nhắc lại lần 1. + Nếu trâu bò không có miễn dịch từ mẹ truyền cho thì tiêm mũi đầu vào 2 - 3 tháng tuổi; tiêm nhắc lại lần 1 vào 4 - 6 tuần sau; tiêm nhắc lại lần 2 vào 4 - 6 tháng sau khi tiêm nhắc lại lần 1. + Liều tiêm: 2ml/trâu, bò. Miễn dịch kéo dài 12 tháng. - Thực hiện vệ sinh chuồng trại hàng ngày và phun thuốc sát trùng theo định kỳ: 2 tuần/lần. - Nuôi dưỡng chăm sóc tốt đàn trâu bò để nâng cao sức đề kháng với bệnh: đảm bảo khẩu phần ăn đủ chất dinh dưỡng và đủ nguồn nước sạch cho trâu bò. - Thực hiện kiểm dịch nghiêm ngặt khi phải xuất nhập trâu bò. Khi có dịch: Súc vật ốm và chết trong ổ dịch phải tiêu huỷ: đốt hoặc chôn sâu giữa 2 lớp vôi bột theo hướng dẫn của thú y; đồng thời kê khai đúng thiệt hại của chủ gia súc để nhận tiền hỗ trợ của Nhà nước. - Thực hiện vệ sinh, tiêu độc triệt để chuồng trại và khu vực có súc vật ốm chết: quét dọn, thu gom rác thải xử lý như đối với súc vật chết; phun thuốc sát trùng mạnh (Iodin 1%; clorin 3%) 2 - 3 lần/tuần; phun liên tục 3 - 4 tuần. Không vận chuyển, giết mổ, phân phối thịt súc vật trong khu vực có dịch theo đúng Pháp lệnh thú y 2004. - Tổ chức tiêm vacxin bổ sung phòng bệnh LMLM ở xung quanh khu vực có dịch và vùng bị dịch uy hiếp; không tiêm vacxin vào thẳng ổ dịch. - Chuồng trại đã có súc vật chết dịch phải để trống 1 - 2 tháng và nuôi lại trâu bò khi có lệnh công bố hết dịch. 6. Bệnh tụ huyết trùng trâu bò
Nguyên nhân: - Bệnh gây ra do vi khuẩn tụ huyết trùng (Pasteurella multocida, Pasteurella haemolitica). Vi khuẩn rất nhỏ không nhìn thấy bằng mắt thường, mà phải quan sát dưới kính hiển vi. - Ở trâu, bò khoẻ có tỷ lệ mang vi khuẩn (khoảng 5 - 7%) mà vẫn sống khoẻ mạnh. Nhưng khi sức đề kháng của trâu bò giảm thấp vì các yếu tố bất lợi (thay đổi thời tiết, vận chuyển, thiếu thức ăn...) thì vi khuẩn sẽ trở nên cường độc, gây bệnh và làm cho trâu bò chết nhanh. - Vi khuẩn có thể tồn tại từ 2 - 4 tuần ở phân rác và chuồng trại ẩm ướt thiếu ánh sáng mặt trời. - Các loại thuốc sát trùng thông thường (Iodin 1%, cloramin B, T, nước vôi 10%, vôi bột...) và ánh sáng mặt trời đều diệt được vi khuẩn. Triệu chứng: - Thời gian ủ bệnh từ: 1 - 3 ngày.
Trâu bò bệnh có các triệu chứng sau:- Sốt cao đột ngột 41 - 420C, niêm mạc mắt đỏ sẫm, chảy nước mắt, nước mũi. Khi sốt cao, súc vật non có thể có triệu chứng thần kinh: run rảy, đi vòng quanh, húc đầu vào chuồng, kêu rống lên... - Ăn kém hoặc bỏ ăn, giảm nhu động dạ cỏ. - Hạch dưới hầu sưng to chèn ép làm Phổi bị sưng, tụ huyết và xuất huyết cho lưỡi luôn thè ra ngoài, nông dân gọi là “trâu, bò hai lưỡi” hoặc “trâu, bò lưỡi đòng”. - Ho nhiều và thở rất khó khăn vì súc vật bị viêm phổi cấp. - Hạch trước vai và trước đùi sưng rất to làm cho súc vật đi lại khó khăn hoặc không đi lại được, nằm bệt một chỗ. Bệnh diễn biến nhanh và nặng do nhiễm trùng huyết và viêm phổi cấp làm cho trâu bò chết sau 1 - 3 ngày với tỷ lệ 100%, nếu không được điều trị kịp thời. Điều trị: * Phác đồ 1: - Thuốc điều trị: Streptomycin liều dùng 25mg/kg thể trọng phối hợp Sulfathiazol liều dùng 30mg/kg thể trọng. Streptomycin tiêm bắp, Sulfathiazol cho uống. Dùng thuốc liên tục 4 - 5 ngày. - Thuốc chữa triệu chứng: tiêm Analgin hạ nhiệt cho súc vật. - Thuốc trợ tim mạch: tiêm phối hợp: cafein, vitamin B1, C; súc vật quá yếu phải truyền huyết thanh mặn ngọt với liều 1000 - 2000ml/100kg thể trọng. - Hộ lý: giảm thức ăn xơ (rơm, cỏ), cho ăn thêm cám hoặc cháo gạo; cách ly súc vật để điều trị. Ghi chú: có thể thay thế Streptomycin bằng Kanamycin với liều 25mg/kg thể trọng; dùng thuốc tiêm; thay thế Sulfathiazol bằng Sulfamerazin với liều 30mg/kg thể trọng cho uống.
* Phác đồ 2:
- Thuốc điều trị: Enrofloxacin 10%INJ (tên khác Enrovet): liều dùng 01ml/15 - 20kg thể trọng. Tiêm bắp thịt liên tục 3 - 5 ngày.
- Thuốc chữa triệu chứng: như phác đồ 1
- Thuốc trợ tim mạch: như phác đồ 1
- Hộ lý: như phác đồ 1 Phòng bệnh: - Phòng bệnh bằng tiêm vacxin: Tiêm vacxin cho trâu, bò theo định kỳ 6 tháng/lần. Hiện nay, có 3 loại vacxin được dùng phòng bệnh tụ huyết trùng, có thể chọn 01 loại thích hợp để tiêm phòng. - Đảm bảo vệ sinh chuồng trại và môi trường: thực hiện chuồng khô sạch, thoáng mát mùa hè, kín ấm mùa đông, hàng ngày quét dọn chuồng trại, định kỳ phun thuốc sát trùng 2 - 3 lần/tháng, bằng 01 trong các loại thuốc sát trùng: Iodin 1%; clorin 3%, nước vôi 10%... - Cung cấp thức ăn đảm bảo đủ chất dinh dưỡng và đủ nguồn nước sạch cho trâu bò. - Phát hiện sớm súc vật ốm, cách ly điều trị kịp thời. - Không vận chuyển, giết mổ, phân phối và sử dụng thịt trâu bò ốm chết, mà trâu bò ốm chết phải tiêu huỷ theo Pháp lệnh thú y 2004. - Khi xuất nhập trâu bò phải thực hiện nghiêm túc công tác kiểm dịch thú y. 7. Bệnh tiên mao trùng trâu, bò Phân bố - Bệnh tiên mao trùng là một số bệnh ký sinh trùng đường máu của trâu bò có ở nhiều nước trên thế giới mà phổ biến ở các nước nhiệt đới châu Phi, châu Á. - Ở châu Âu và Bắc Mỹ, bệnh đã được thanh toán - Ở Việt Nam, bệnh xảy ra ở trâu bò tất cả các vùng sinh thái. Nguyên nhân - Ở Việt Nam, tác nhân gây ra bệnh ở trâu bò là loài tiên mao trùng (Trypanasoma evansi ) sống trong dịch thể máu của trâu bò Trâu, bò nhiễm tiên mao trùng với tỷ lệ khác nhau ở các vùng sinh thái. Ở đồng bằng 15 - 15% số trâu bò Ở trung du 10 - 13 số trâu bò Ở vùng ven biển 8 - 12% số trâu bò Ở miền núi 6 - 8% số trâu bò - Các loại ruồi hút máu và các loài mòng là những vật trung gian truyền mầm bệnh tiên mao trùng cho trâu, bò và các loài thú hoang. Triệu chứng - Thời kỳ ủ bệnh: 10 - 15 ngày - Sốt cao gián đoạn 40 - 41,50C khi sốt cao có hội chứng thần kinh, run rẩy, đi loạng choạng... - Thiếu máu, suy nhược và gây dần trong suốt thời gian bị bệnh. - Ỉa chảy dai dẳng sau các đợt sốt. - Bò cái mang thai có thể bị sẩy thai khi nhiễm tiên mao trùng. - Phù thũng ở hầu, ở chân sau và liệt chân ở thời kỳ cuối, chết do kiệt sức. Điều kiện lây truyền bệnh: - Trâu, bò, ngựa, hươu, nai, chó ở các lứa tuổi đều bị bệnh tự nhiên. Trâu, bò nhập nội thường bị bệnh nặng hơn trâu bò nội. - Vật chủ môi giới truyền bệnh là 62 loài côn trùng thuộc họ mòng (Tabanidae) và 3 loài thuộc họ ruồi hút (Stomoxydinae) phân bố ở tất cả các vùng sinh thái ở nước ta. - Mùa phát sinh bệnh từ tháng 4 đến tháng 10 là những tháng nóng ẩm, côn trùng môi giới phát triển mạnh, hút máu và truyền bệnh cho trâu bò. Điều trị: Dùng một trong hai phác đồ sau: Phác đồ 1: - Thuốc điều trị: Azidin (= Berenul) với liều 3,5mg/kg thể trọng, pha nước cất 10%, tiêm một liều vào tĩnh mạch hoặc bắp thịt. - Thuốc trợ tim mạch: tiêm Cafein, Vitamin B1, Vitamin C trước khi tiêm Azidin. - Hộ lý: cho trâu, bò nghỉ làm việc 3 ngày. Phác đồ 2: - Thuốc điều trị: Trypamidium với liều 1mg/kg thể trọng, liều thuốc pha với 020ml nước cất, tiêm chậm vào tĩnh mạch. - Thuốc trợ tim mạch: tiêm Cafein, vitamin B1, C trước khi tiêm Azidin. - Hộ lý: Cho trâu, bò nghỉ làm việc 3 ngày. Phòng bệnh - Định kỳ kiểm tra máu trâu bò: 6 tháng/lần phát hiện trâu bò nhiễm tiên mao trùng, điều trị sớm. - Diệt côn trùng môi giới bằng biện pháp cơ học và thuốc diệt côn trùng (Ectopor 100; Hantox - spray) - Kiểm dịch nghiêm ngặt khi xuất nhập trâu bò. 8. Bệnh lê dạng trùng ở bò Phân bố - Bệnh lê dạng trùng bò có ở khắp nơi trên thế giới, nhưng phổ biến ở các nước nhiệt đới châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh - Bệnh thường gặp ở đàn bò sữa và bò thịt nhập nội đang giai đoạn nuôi thích nghi tại các cơ sở nuôi bò ở nước ta. Nguyên nhân Ở Việt Nam đã thấy 2 loài lê dạng trùng chủ yếu gây bệnh cho bò: - Trùng lê lớn (Babesia bigemina): hình lê đơn, lê đôi, ký sinh trong hồng cầu, kích thước gấp 2 bán kính hồng cầu. - Trùng lê nhỏ (Babesia bovis): cũng có hình lê đôi, lê đơn, ký sinh trong hồng cầu, kích thước nhỏ hơn bán kính hồng cầu. Đặc điểm sinh học Lê dạng trùng có 2 giai đoạn phát triển:
- Giai đoạn ký sinh ở hồng cầu bò, sinh sản vô tính theo phương thức mọc nhánh.- Giai đoạn ở vật chủ trung gian (Ve họ Ixodidae ): lê dạng trùng sinh sản hữu tính, qua 5 giai đoạn, cuối cùng thành bào tử, vào tuyến nước bọt ve, truyền sang bò khi ve hút máu bò. Bệnh lý - Ký sinh trong hồng cầu làm biến dạng hồng cầu - Độc tố tiết vào máu làm vỡ hồng cầu hàng loạt, giải phóng huyết sắc tố qua nước tiểu, làm nước tiểu đỏ,
Bàng quang bò bệnh chứa nước tiểu và đỏ sẫm
gây thiếu máu cấp.
Độc tố gây rối loạn điều hoà nhiệt, làm vật bệnh sốt cao, li bì.
Triệu chứng - Sốt cao 41 - 420C ly bì suốt trong thời gian bị bệnh - Nước tiểu hồng, sau đỏ sẫm - Niêm mạc mắt đầu tiên đỏ sẫm, sau trắng bệch do thiếu máu cấp. - Thở nhanh, ho, thở khó khăn tăng dần. - Bò bệnh thể cấp tính chết sau 6 - 10 ngày ở tình trạng bần huyết cấp, kiệt sức, ngạt thở. - Bò bị bệnh thể mãn tính: Các dấu hiệu lâm sàng nhẹ dần, suy nhược và thiếu máu kéo dài 2 - 3 tháng, chết do kiệt sức. Điều kiện lây truyền bệnh - Bò ở các lứa tuổi đều bị bệnh, bệnh nặng ở bò từ 6 - 12 tháng và bò sữa nhập nội nuôi chưa được 2 năm, chưa quen điều kiện sinh thái. - Vật chủ trung gian truyền bệnh là các loài ve cứng (họ Ixodidae), ve (Boophilus microplus) và ve (Ixodes ricinus). Điều trị Phác đồ điều trị: - Thuốc điều trị: Azidin với liều 3 - 3,5mg/kg thể trọng bò; thuốc pha nước cất 10%: tiêm bắp hoặc tĩnh mạch. - Tiêm thuốc trợ sức: Cafein hoặc long não nước, vitamin B1; truyền huyết thanh mặn ngọt đẳng trương: 1000 ml/100kg thể trọng bò. - Hộ lý: nuôi dưỡng chăm sóc tốt bò khi điều trị. Phòng bệnh - Ở khu vực có lưu hành bệnh phải định kỳ kiểm tra máu bò phát hiện bò bệnh điều trị kịp thời. - Tổ chức tiêm thuốc phòng nhiễm cho đàn bò mới nhập nội bằng Azidin như trên vào cuối mùa xuân sang mùa hè khi ve phát triển mạnh hút máu và truyền bệnh cho bò. - Diệt ve trên thân súc vật, trong chuồng trại và trên bãi chăn bằng thuốc theo định kỳ (Phun Butox hoặc Hantox) 9. Bệnh sán lá gan trâu bò (Buffalo - bovine Fascioliasis)
Phân bố - Bệnh sán lá gan trâu bò phân bố rộng ở các nước trên thế giới, đặc biệt ở các nước nhiệt đới châu Á và châu Phi; - Ở Việt Nam, tỷ lệ trâu bò nhiễm sán lá gan thay đổi tuỳ môi trường sinh thái, khoảng 35% ở các tỉnh miền núi và 60% ở các tỉnh đồng bằng. Nguyên nhân Bệnh do hai loài sán lá gây ra: - Fasiola gigantica: hình mũi mác, màu hồng, kích thước 5,0 - 7,5 x 0,9 - 1,2cm; trứng màu vàng rơm. - Fasiola hepatica:hình lá, kích thước ngắn hơn: 2,5 - 3,0 x 1,0 - 1,5cm; trứng màu vàng rơm. - Vật chủ trung gian của sán lá gan là một số loài ốc nước ngọt không nắp. ở Việt Nam, có 2 loài ốc là vật chủ trung gian (Lymnaea swinhoei; Lymnaea viridis) đóng vai trò truyền bệnh sán lá gan cho trâu bò. Vòng đời của sán - Sán trưởng thành ký sinh ở ống dẫn mật và túi mật của gan súc vật, đẻ trứng ở đó. Trứng theo phân ra ngoài. - Trứng gặp các điều kiện thích hợp phát triển thành các dạng ấu trùng: bào ấu, lôi ấu, vĩ ấu. Vĩ ấu ra khỏi ốc, rụng đuôi, trở thành kén (Metacercaria). - Kén tồn tại ở ao hồ, mương, lạch khoảng 20 - 30 ngày, bám vào cây thuỷ sinh. Trâu bò ăn phải kén sẽ nhiễm sán lá gan. Trong cơ thể trâu, bò kén phát triển thành sán trưởng thành từ 3 - 4 tháng. Triệu chứng - Thời gian ủ bệnh khoảng 30 - 35 ngày. Trâu, bò thể hiện: - Ăn kém, giảm nhu động dạ cỏ và ruột thời kỳ đầu. - Sau đó ỉa chảy dai dẳng, phân lỏng, có mùi tanh. - Bê, nghé non có thể thấy hội chứng thần kinh: run rẩy, đi lại xiêu vẹo. - Vật bệnh gầy dần, suy nhược, thiếu máu... thể hiện: niêm mạc nhợt nhạt, sức lao tác giảm, sữa giảm. - Nếu không được điều trị, bê nghé bệnh sẽ chết sau 15 - 20 ngày và trâu bò trưởng thành nhiễm sán sẽ chết sau 5 - 12 tháng do kiệt sức. Điều trị - Dùng 1 trong các hoá dược sau: + Han - Dertyl B: dùng liều 10 mg/kg thể trọng trâu bò. Thuốc trộn thức ăn hoặc cho trâu bò uống trực tiếp. + Trichlabendazol: dùng liều 12 mg/kg thể trọng trâu, bò, thuốc trộn thức ăn hoặc cho trâu bò uống trực tiếp. + Tolzal F (= Oxyclozanide): dùng liều 10mg/kg thể trọng trâu bò. Thuốc trộn thức ăn hoặc cho uống. - Thuốc trợ sức: tiêm Cafêin hoặc long não nước, vitamin B1, C. Phòng bệnh: - Định kỳ kiểm tra phân đàn trâu bò, cứ 6 tháng/lần phát hiện trâu bò nhiễm sán và điều trị kịp thời. - Đàn gia súc có tỷ lệ nhiễm sán cao, cần tẩy sán định kỳ cho toàn đàn bằng 1 trong 3 hoá dược trên, cứ 6 tháng/lần. - Lấp các ao tù, bãi lầy để hạn chế sự phát triển của ốc vật chủ trung gian. - Nuôi vịt, ngan ở vùng đồng trũng để diệt ốc vật chủ trung gian. - Ủ phân diệt trứng giun sán. VI. CÁC BIỂU MẪU GHI CHÉP VÀ QUẢN LÝ 1. Thông tin về chăn nuôi gia đình (Đầu gia súc) + Trâu ………….. + Bò………….. + Dê ………….. + Lợn ………….. + Thỏ………….. + Gà ………….. + Vịt, ngan, ngỗng ………….. + Gia súc khác………….. ………….. + Cơ sở chuồng trại: Tốt o TB o Kém o + Kinh nghiệm chăn nuôi của gia đình: Tốt o TB o Kém o
2. Đặc điểm bò mẹ
Giống: ( Bò địa phương, bò Lai...)..........................................